45 năm trước Bác Hồ viết xong Di chúc

Năm 1965, vào tuổi 75, Bác yếu đi nhiều. Có lẽ do cảm nhận rõ việc sẽ ra đi khó tránh của mình, nên từ tháng Năm, Bác đã bắt đầu việc viết Di chúc - một công việc mà Bác gọi là “Tuyệt đối bí mật” được tiến hành rất kín đáo trong nhiều năm. Ấy là từ 9 giờ sáng ngày 10/5, trong cái tháng Năm sinh nhật Bác hàng năm đã thành quen thuộc trong tâm lý dân tộc; cái tháng Năm ngược bao năm tháng về trước Bác thỉnh thoảng thường có thơ để trò chuyện với đồng chí, đồng bào.

 

Nhân dân từ khắp mọi miền đất nước, kiều bào về thăm Tổ quốc và khách nước ngoài vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.Ảnh: Đình Trân - TTXVN

 

Ở tuổi 59:

Vì nước chưa nên nghĩ đến nhà


Năm mươi chín tuổi vẫn chưa già


Chờ cho kháng chiến thành công đã


Bạn sẽ ăn mừng sinh nhật ta.


Qua tuổi 60 và 63 - Bác đều có thơ viết cho mình. Rồi bẵng đi 15 năm, cho đến năm 1968, Bác mới trở lại mạch thơ về tuổi thọ:


Bảy mươi tám tuổi chưa già lắm


Vẫn vững hai vai việc nước nhà


Kháng chiến dân ta đang thắng lớn


Tiến bước ta cùng con em ta


Từ tuổi 59 “vẫn chưa già” đến tuổi 78 “chưa già lắm” trong khoảng cách ngót 20 năm, phải nói cuộc đời Hồ Chí Minh là một cuộc đời không biết mệt mỏi, không biết tuổi già. Nhưng sự thật thì đến tuổi 75 Bác đã nghĩ đến việc thảo Di chúc, và vào tuổi 78 Bác đã yếu nhiều. Từ 1965, và hai năm 1966 - 1967, vào mùa hè, Bác đều phải đi tĩnh dưỡng theo yêu cầu của Bộ chính trị, và theo lời mời của nước bạn Trung Hoa. Đến 1968 Bác đi lại đã không vững. Theo yêu cầu của bác sĩ, Bác phải tránh xúc động mạnh, không được lên nhà sàn, đi đâu phải có người dìu.


Thế mà tinh thần và khí thế trong bài thơ ở tuổi thọ 78 là hoàn toàn khác.


Mở đầu năm Kỷ Dậu - 1969, như thường lệ Bác vẫn có thơ Xuân gửi đồng chí, đồng bào:


Năm qua thắng lợi vẻ vang


Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to


Vì Độc lập, vì Tự do


Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào


Tiến lên, chiến sĩ đồng bào


Bắc Nam sum họp xuân nào vui hơn


Thư chúc Tết Bác gửi toàn thể nhân dân, đó là sự kiện đã thành phong tục thiêng liêng và ấm cúng của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Thỉnh thoảng cùng với thư, Bác có kèm thơ Xuân, như các năm 1946, 1947, 1961. Thế mà vào những năm cuối đời Bác lại dồn dập có thơ Xuân. Trước đó hai năm, năm 1967:


Xuân về xin có một bài ca


Gửi chúc đồng bào cả nước ta


Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi


Tin mừng thắng trận nở như hoa


Và 1968:


Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua


Thắng trận tin vui khắp nước nhà


Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ


Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta


Vậy là 3 năm liền, 3 năm sức khỏe mỗi năm một sa sút, Bác lại có thơ Xuân. Năm 1968 Bác còn có thêm hai bài khác, một cho các cháu dân quân gái thành phố Huế:


Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường


Khôn ngoan dàn trận khắp phố phường


Bác khen các cháu dân quân gái


Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương.


Và bài thứ hai, Không đề, viết cho mình và về mình như một ngẫu nhiên bất chợt:


Đã lâu không làm bài thơ nào


Nay lại thử làm xem ra sao


Lục khắp giấy tờ vần chưa thấy


Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao.


Năm 1968, đó là năm quân dân ta tiến hành cuộc Tổng tiến công vào các đô thị miền Nam, làm thay đổi cục diện chiến trường. Và như sau này cho thấy, đó là năm quân dân ta tập dượt để có Đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử.


Dường như cảm nhận sớm cuộc ra đi, nên Bác càng như muốn gắn với Đời nhiều hơn.


***


Đọc cuốn Bác Hồ viết Di chúc(1) của đồng chí Vũ Kỳ, ta được biết: Tết Kỷ Dậu - 1969, Bác mong muốn được đi chúc Tết nhiều nơi. Trước hết, thăm lại nơi có thành tích trồng cây sau 10 năm Bác phát động, là thôn Vật Lại, xã Tòng Bạt, huyện Ba Vì. Nghe có Trung đoàn Bộ đội thông tin anh hùng đóng ở gần Trại chăn nuôi bò của anh hùng Hồ Giáo, Bác muốn đến để động viên cả hai nơi. Lại nghe Trường học sinh Miền Nam Nguyễn Văn Trỗi, có một số em hư, Bác muốn tiện dịp đến thăm để khuyên nhủ các cháu. Những “kết hợp” như thế, nếu thực hiện cả, sẽ rất mệt cho Bác. Ban tổ chức và bác sĩ có ý ngăn cản, Bác trách:


“ - Các chú phải hiểu cho Bác. Tết đến Bác đi thăm dân mà các chú lại ngăn Bác sao? Và chưa đi đã ngại mệt thì làm được việc gì!”.


Để khỏi phật ý Bác, Ban tổ chức, với sự giúp đỡ của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã rất khéo léo thay một chương trình khác, mà không để lộ. Đó là chương trình thăm binh chủng phòng không - không quân, vốn là binh chủng có công to trong chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, hiện đang đóng ở sân bay Bạch Mai, chỉ cách nhà sàn của Bác khoảng 15 phút ô tô. Thế là cuộc đi đã được Bác đồng ý, và kéo dài đến 9 giờ rưỡi sáng. Số thời gian còn lại chỉ đủ lên Vật Lại cho đến ngoài 11 giờ.


Tháng Năm Kỷ Dậu, Bác vẫn tiếp tục công việc như từ 4 năm về trước, vào sáng mồng 10. Lần này có chậm nửa giờ vì buổi sáng Bác phải đến dự khai mạc Hội nghị Trung ương Đảng ở Hồ Tây, có một số cán bộ cao cấp miền Nam ra dự. Lúc ra về, nhiều cán bộ miền Nam lưu luyến tiễn Bác ra xe, không muốn rời. Bác vẫy tay, căn dặn: “Các chú tranh thủ vào họp tiếp đi. Bàn nhanh lên mà về với dân, với bộ đội”. Đến nhà, ngồi vào bàn từ 9 giờ rưỡi sáng, Bác lại đưa tài liệu “Tuyệt đối bí mật” ra chữa.

Năm nào Bác cũng chữa, nhưng năm nay Bác chữa nhiều: bổ sung thêm một số đoạn; thay đổi, thêm bớt nhiều câu chữ phần đầu và giữa, còn phần cuối vẫn giữ nguyên. Chẳng hạn: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta (dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa) nhưng nhất định thắng lợi hoàn toàn” - thêm đoạn trong ngoặc đơn. Thay chữ thăm hỏi bằng chúc mừng trong câu “... để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ”, và giữ lại chữ thăm hỏi cho đoạn sau - “thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng”. Thay tuổi bằng xuân trong câu: “Khi người ta đã ngoài 70 xuân” vân vân...


Tháng Năm - ngày 11, đặc biệt Bác có cuộc thăm Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân. Lo lắng đặt ra cho Ban tổ chức là phải làm sao cho các tướng lĩnh vẫn thấy Bác được khỏe mạnh, không quá yếu trong đi lại, và trong giọng nói. Giọng nói thì khó - đầu năm khi đọc thơ Xuân, Bác đã phải luyện giọng nhiều ngày để cho tiếng nói vẫn rõ, còn đi lại thì đã có cách để giấu, miễn sao tránh không cho thấy Bác đi phải có người dìu. Vậy là, từ nhà sàn sang chỗ gặp gỡ cách 300 m xe phải vào phía cổng hậu ở cuối đường Xoài, cửa vào thường đóng kín, để trong khi mọi người đang chờ Bác ở cổng chính, thì Bác đã vào và ngồi sẵn ở ghế rồi. Còn khi ra về, trong lúc mọi người còn nấn ná chưa muốn rời Hội trường và Ban tổ chức còn đang lúng túng thì Bác đã đứng dậy, nói to:


“ - Tất cả đứng dậy!”


“ - Đằng sau, quay! Bước đều, bước!”


Để, đúng vào lúc ấy, khi tất cả mọi người tuân “lệnh” Bác quay lưng để đi ra cửa chính, thì Bác được dìu theo cửa sau ra về.


Và đấy là mùa sinh nhật cuối cùng của Bác; là tháng Năm sinh nhật cuối cùng của dân tộc. Ngót 4 tháng sau, Bác qua đời. Và lễ tang toàn dân tộc và bè bạn năm châu đưa tiễn Bác đã được tổ chức ở Quảng trường Ba Đình vào 9 giờ sáng ngày 9/9/1969, sau một tuần mưa tầm tã - “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa” - như trong một câu thơ của Tố Hữu.


Phong Lê

(1) Nxb. Sự thật; H.; 1989

Di chúc của Bác về đoàn kết trong Đảng

Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam bản Di chúc lịch sử mà những nội dung trong Di chúc đó có giá trị vượt thời gian.

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN