Đề cương về Văn hóa Việt Nam - 1943 bài học sau 70 năm - Bài 1: Những bất cập mang tính lịch sử…

Hoàn cảnh ra đời


Đề cương về văn hóa Việt Nam - 1943 của Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời trong một tình thế lịch sử cực kỳ căng thẳng: Nhật vào Đông Dương, chế độ phát xít được thiết lập, cuộc thế chiến đang đi gần tới kết thúc, và đất nước bước vào thời kỳ tiền khởi nghĩa. Nạn diệt chủng do sự bóc lột tàn bạo của chính quyền Pháp - Nhật, và sự kiệt quệ về kinh tế sẽ dẫn đến cái chết của hai triệu người.


Đảng Cộng sản Đông Dương, người lãnh đạo dân tộc nhằm vào mục tiêu độc lập dân tộc, tự do và dân chủ cho nhân dân, đến lúc này vẫn là lực lượng duy nhất có sứ mệnh đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng. Cùng với hoạt động chính trị và quân sự, Đảng cũng rất coi trọng mặt trận văn hóa. Mục 3: “Thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa” trong Phần I của Đề cương được ghi: “- Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động”. Đồng thời, khi nhằm mục tiêu số 1 là cứu dân tộc, Đảng cũng cho thấy, đó là con đường cứu nền văn học dân tộc: “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”.


Đề cương về văn hóa ra đời trong tình thế lịch sử sôi sục ấy nhằm mục đích trực tiếp và cao cả nhất là giành độc lập, tự do cho dân tộc; và với một quan niệm rất rõ là có cứu được dân tộc thì mới cứu được văn hóa dân tộc. Đó chính là nội dung quan trọng, cơ bản và đầu tiên của Đề cương. Nó được ghi ở vị trí số 1 trong ba nguyên tắc: Dân tộc hóa, Đại chúng hóa, Khoa học hóa. Trong tình thế khốn cùng của nhân dân vào đầu những năm 1940, các tầng lớp trí thức của dân tộc cũng đều bị dồn đến thế cùng. Qua phương châm Dân tộc hóa, và với sự thành lập Hội Văn hóa cứu quốc, gần như đại bộ phận đội ngũ trí thức khoa học và nghệ thuật của dân tộc đều hướng về cách mạng và tham gia cách mạng.


Đồng thời Đề cương về văn hóa ra đời khi những nền tảng cho sự canh tân văn hóa, văn học dân tộc đã được thực hiện, với vai trò các nhà Nho - chí sĩ đầu thế kỷ, nhưng các kết quả thu được vẫn còn giới hạn ở các tầng trên, các mặt trên, vẫn còn chưa động tới được các bề sâu. Qua phương châm Đại chúng hóa, Đề cương tiếp tục sứ mệnh lật sâu, đào sâu xuống các nền tảng của đại chúng, nhằm đưa văn hóa vào quần chúng, và đưa quần chúng vươn dần lên và hướng tới các mục tiêu từ thấp lên cao của tiếp thụ và sáng tạo văn hóa...

 

Nhìn lại


Bây giờ, sau 70 năm, với bao biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - Việt Nam từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp - Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất đất nước và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hóa dân tộc.


Dẫn một vài đoạn của Đề cương ở mục 1, phần II: Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam.


“a. Thời kỳ Quang Trung trở về trước:
Văn hóa Việt Nam có tính cách nửa phong kiến nửa nô lệ, phụ thuộc vào văn hóa Tàu.
b. Thời kỳ từ Quang Trung đến khi đế quốc Pháp xâm chiếm:
Văn hóa phong kiến có xu hướng tiền tư bản.
c. Thời kỳ từ Pháp sang xâm chiếm đến nay:
Văn hóa nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn có tính cách thuộc địa...”.

Ở đây, sự vận dụng chủ nghĩa Mác còn ở trong dạng sơ khai, nên tính độc lập, dẫu là độc lập tương đối của thượng tầng kiến trúc và ý thức tinh thần bao gồm cả văn hóa, học thuật, tư tưởng lại chưa được chú ý một cách thấu đáo. Do vậy Đề cương chưa thể làm cho thấy được: xã hội có thể là phong kiến- thuộc địa, nhưng văn chương học thuật lại không phải thế, hoặc không hoàn toàn như thế. Bằng chứng là chính ở thời kỳ tệ hại nhất của xã hội phong kiến, trước và sau thời Quang Trung, lại là thời kỳ đỉnh cao của văn chương - học thuật trung đại. Và chuyển sang xã hội thuộc địa, thì sự phát triển lên đỉnh cao ở giai đoạn rực rỡ nhất của văn học hiện đại lại là thời kỳ trước sau 1940, với sự hội đủ tên tuổi các tác gia tiêu biểu của cả ba trào lưu: cách mạng, hiện thực và lãng mạn.


Sự bất cập trong tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác cũng được thể hiện khi Đề cương xác định ở Phần V: Nhiệm vụ cần kíp và các Công việc phải làm cho những người công tác văn hóa; và nhất là những nhà văn hóa mácxít Việt Nam:


“a. Tranh đấu bảo vệ học thuyết, tư tưởng (đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở nước ta: triết học Khổng, Mạnh, Đêcactơ (Descartes), Becson (Bergson), Căng (Kant), Nitsơ (Nietzsche)…; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng.
b. Tranh đấu về tông phái văn nghệ (chống chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng... làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng)”.


Lấy nhận thức bây giờ, thậm chí không phải bây giờ mà sớm hơn vài chục năm, cũng sẽ thấy đây là một nhận thức không toàn diện, thậm chí là bất cập, vì trong hoàn cảnh chính trị và xã hội của ta lúc bấy giờ không thể có nhu cầu tiếp thu một cách toàn diện, thấu đáo các loại triết thuyết và các trường phái văn nghệ phương Tây. Và do vậy cũng không có nhu cầu phải hiểu nó ở tư cách những học thuyết và trường phái nghệ thuật vốn có lý do ra đời, tồn tại, và làm nên diện mạo mới của nó trong lịch sử phương Tây. Thế nhưng ta vẫn cần có sự phê phán, để, về lý thuyết, loại bỏ các ảnh hưởng tiêu cực của nó, dẫu trong thực tiễn, chưa có biểu hiện gì nặng nề lắm trong đời sống văn chương - học thuật của ta; bởi cái lý do bao trùm là phải hướng tất cả mọi hoạt động của dân tộc vào việc giải quyết các yêu cầu cụ thể bức xúc của một cuộc cách mạng đang đến rất gần.


Bài 2: Ba nguyên tắc vận động

Chia sẻ:

doanh nghiệp - Sản phẩm - Dịch vụ Thông cáo báo chí Rao vặt

Các đơn vị thông tin của TTXVN